Tiểu sử Suzuki Choji

Võ sư Suzuki Choji sinh ngày 10 tháng 6 năm 1919 tại Kasagami, thành phố Tagajō, tỉnh Miyagi thuộc miền Đông Bắc Nhật Bản, là anh cả trong một gia đình có bốn anh em bao gồm Suzuki Choji, Suzuki Minoru, Suzuki Masako, và Suzuki Isao.

Từ năm 8 tuổi đến 18 tuổi, Suzuki Choji theo học tiểu học và trung học ở Kasagami. Trong thời gian này, ông tập Judo (Nhu đạo) tại Câu lạc bộ Nhu đạo của trường, và năm 13 tuổi thì được thân phụ gửi đến thọ giáo một thiền sư dạy Karate trong vùng, thầy Shigemoto Tadao. Trong hoàn cảnh các phái võ tại Nhật Bản bị cấm như thời gian này, một tu sĩ đã giúp đưa Suzuki lên ẩn cư trong ngôi chùa cổ trên núi và ở đây, ông đã tiếp tục luyện tập Karate, Jujutsu trong những điều kiện hết sức khó khăn. Ba năm sau, ông được thọ giáo Đại sư Asano Zenkichi (sư phụ của Shigemoto Tadao), và được Đại sư đồng ý huấn luyện.

Năm 19 tuổi Suzuki Choji lên Tokyo lập nghiệp, làm thêm ở một hãng xe hơi ở thủ đô. Tại đây, ông tiếp tục tập luyện Karatedo đồng thời chuyên tâm đọc sách, nghiên cứu võ đạo, Judo và Karatedo. Niềm đam mê võ thuật đã đưa ông hạnh ngộ đại sư Kisaburo của hệ phái Takenouchi-ryū (Trúc Chi Nội Lưu), một hệ phái Karate/Jujitsu với những tuyệt kỹ bí kíp cổ xưa của Okinawa. Những ngày nghỉ cuối tuần và ngày lễ ông lặn lội về tận Nagasaki để thụ giáo thầy. Tương truyền, các đại sư Trúc Chi Nội Lưu chỉ truyền thụ cho các môn đồ Thiền tông và rất giới hạn về số lượng, giới luật cũng cực kỳ khắt khe. Vị đại sư trực tiếp truyền thụ cho Choji Suzuki cũng chỉ nhận đúng 3 đệ tử[2].

Năm 1940 khi chiến tranh Thái Bình Dương lan rộng. Như nhiều thanh niên Nhật Bản thời bấy giờ, Suzuki Choji được động viên vào quân đội. Lúc này ông 21 tuổi.

Năm 1942 khi rời quân trường và chính thức bước vào các chiến tuyến, Suzuki được chuyển sang Mãn Châu. Năm 1943 ông sang Mã Lai và tới năm 1944 thì đặt chân đến Việt Nam.

Năm 1945, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Trong đội quân Thiên Hoàng bại trận[3], nhưng Suzuki Choji quyết định ở lại Việt Nam và tham gia Mặt trận Việt Minh kháng chiến chống Pháp[1] với cấp bậc đại uý, nhận lời huấn luyện võ nghệ cho một đơn vị bộ đội ở Lạng Sơn. Trong một lần Phạm Văn Đồng (sau này là Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) tình cờ ghé thăm, đã quý mến tặng Suzuki Choji một khẩu súng có khắc tên ông, đồng thời đặt tên Việt Nam cho người chiến sĩ xuất thân từ Nhật Bản này là Phan Văn Phúc[4].

Trước năm 1948, Suzuki Choji công tác ở Liên khu 4 (Thanh Hóa) và đến cuối năm 1948 ông được điều chuyển vào Liên khu 5 (Quảng Ngãi), phụ trách một xưởng sản xuất dụng cụ y tế cung cấp cho mặt trận. Xưởng sản xuất đặt tại vùng Chợ Chùa, Quảng Ngãi. Trong những năm này ông lập gia đình với một người phụ nữ Việt Nam.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, Suzuki Choji cùng gia đình về định cư ở Huế. Tại đây, vào năm 1960 ông mở đạo đường mang tên Suzucho Karatedo Ryu Dojo Noen, dạy Judo và Karatedo, khai sinh Trường phái Suzucho Karatedo. Suzucho (鈴長, Linh Trường) là từ ghép từ họ và tên của người sáng lập, hàm nghĩa lưu truyền sự nghiệp dài lâu như tiếng chuông ngân xa. Người vợ ông thì may võ phục, phục vụ cơm nước cho các môn sinh từ xa tới. Mặc dù vậy, đến năm 1963 Đạo đường mới chính thức đi vào hoạt động. Đạo đường đặt tại số 8 Võ Tánh, Huế (nay là đường Nguyễn Chí Thanh, thành phố Huế), ẩn mình ngay dưới chân cầu Đông Ba chính là ngôi tư gia của người sáng tổ Suzuki Choji, có chiều ngang chừng 4m và chiều sâu chừng 25m[4]. Những thế hệ môn sinh đầu tiên của Karatedo Việt Nam như Ngô Đồng, Hạ Quốc Huy, Nguyễn Xuân Dũng, Lê Văn Thạnh, Hoàng Như Bôn v.v. đã trưởng thành từ đây.

Tháng 6 năm 1964, Suzuki Choji mở một khóa đào tạo mang tên Bodankumi. Đây là khóa học đặc biệt chỉ gồm 7 môn sinh (Lê Văn Thạnh, Chế Văn Nhẫn, Nguyễn Khoa Tín, Võ Đại Vạn, Lê Bá Hoá, Phạm Lạc và Nguyễn Văn Thanh)[5]. Giờ tập được nâng lên gấp đôi bình thường với mục đích truyền tải tất cả tinh hoa võ học Karate nhằm xây dựng thế hệ huấn luyện viên chủ chốt cho tương lai[3].

Phong trào theo học các lớp võ thuật Suzuki Choji trực tiếp huấn luyện phát triển mạnh và ngày càng có nhiều môn sinh từ tỉnh xa khăn gói tìm về. Yêu cầu cấp thiết là phải mở thêm phân đường ở các tỉnh thành, mà nơi đầu tiên là Đà Nẵng. Ở Đà Nẵng, Suzuki vừa dạy võ vừa đảm nhận giúp thành phố vai trò bài trừ du đãng nên công việc rất bận rộn, chỉ cuối tuần hay ngày nghỉ mới có thời gian quay trở về Huế, nơi các môn sinh của ông đang miệt mài tập luyện dưới sự điều hành và quản lý võ đường của người vợ ông, cô Nguyễn Thị Minh Lệ (Suzuki Reiko).

Năm 1972, khi phong trào Karatedo ở Huế và Đà Nẵng phát triển vững vàng, Suzuki Choji giao cho các học trò điều hành võ đường rồi vào Sài gòn, làm giám đốc khách sạn Kiyo ở Khánh Hội. Ông trực tiếp quản lý cơ sở này cho đến kết thúc chiến tranh năm 1975.

Những năm đầu sau 1975, các sinh hoạt võ thuật bị hạn chế hoạt động và võ đường Suzucho không còn sinh hoạt nữa[3]. Ngày 18 tháng 12 năm 1978, Suzuki Choji cùng gia đình trở về cố hương, Nhật Bản, để rồi sinh sống đến cuối đời tại đây. Khi phong trào tập luyện Karate nói riêng và võ thuật nói chung ở Việt Nam khởi phát trở lại, tuy ở xa, nhưng Suzuki Choji vẫn hằng quan tâm phong trào Karatedo Việt Nam. Nguyện vọng tha thiết của ông là được về thăm Việt Nam một lần trước khi từ giã cõi đời nhưng rồi nguyện ước không thành. Ông mất tại quê nhà Kasagami, lúc 17 giờ ngày 06 tháng 02 năm 1995, hưởng thọ 77 tuổi.